PHỎNG VẤN VTV2 CHỦ ĐỀ LUẬT PHÁ SẢN 2004 VÀ SỬA ĐỔI LUẬT PHÁ SẢN

 Thưa Luật sư, dù được kỳ vọng là sẽ khắc phục được những vướng mắc của Luật Phá sản năm 1993, sau 8 năm triển khai, Luật Phá sản 2004 vẫn bộc lộ nhiều bất cập và trên thực tế nhiều trường hợp doanh nghiệp không thể thực hiện được việc phá sản theo luật hoặc nếu có thực hiện được thì vụ việc cũng kéo dài trong nhiều tháng. Theo ông, đâu là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này?

Trả lời:

  • Có thể nói Luật Phá sản 2004 là một trong những luật có khả năng thực thi thấp nhất trong số những luật được ban hành cùng thời điểm. Theo tôi, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Có thể kể đến một số nguyên nhân chính sau đây:
  • Một là, một số các khái niệm trong luật không được hướng dẫn cụ thể, rõ ràng, dẫn đến không thể áp dụng trên thực tế.
  • Một trong những khái niệm còn mơ hồ đó là thế nào là “lâm vào tình trạng phá sản”? Theo quy định của Luật này, khi doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản. Vậy giá trị cụ thể của khoản nợ là bao nhiêu, thời hạn quá hạn là bao lâu thì doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là mất khả năng thanh toán?
  • Chính những quy định không rõ ràng này dẫn đến nhiều doanh nghiệp hoặc chủ nợ muốn yêu cầu tòa án ra quyết định phá sản cũng không phải dễ.
  • Hai là, trình tự thủ tục để Tòa án tuyên bố một doanh nghiệp đủ điều kiện phá sản phải tuân theo nhiều bước, nhiều trình tự thủ tục chưa rõ ràng.
  • Chẳng hạn, khi nào thì thẩm phán được chuyển từ áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản?
  • Các quy định không rõ ràng này khiến nhiều Tòa án hiện nay còn lúng túng trong việc xử lý hoặc trả lời khiếu nại của các doanh nghiệp hoặc chủ nợ.
  • Ba là, Luật Phá sản 2004 quy định Tòa án chỉ ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản sau khi đã thu hồi hết nợ và thanh lý bán hết tài sản của doanh nghiệp, phương án phân chia tài sản đã thực hiện xong hoặc doanh nghiệp không còn tài sản.
  • Quy định này là rất bất hợp lý, bởi lẽ việc thanh lý tài sản rất phức tạp và không thể kết thúc trong thời gian ngắn, dẫn đến việc Tòa án không thể ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản ngay được. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc tình trạng thanh lý tài sản kéo dài chẳng hạn như tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã không bán được, doanh nghiệp, hợp tác xã có những khoản nợ phải thu mà chưa thu hồi được, hoặc việc thanh lý tài sản là bất động sản và tài sản gắn liền với đất không thể thực hiện được do bất động sản là đất mà doanh nghiệp, hợp tác xã thuê của nhà nước. Khi các doanh nghiệp, hợp tác xã này bị yêu cầu tuyên bố phá sản thì bất động sản bị thu hồi trong khi tài sản gắn liền với đất lại được bán cho một doanh nghiệp khác.
  • Để khắc phục tình trạng này, Dự thảo Luật Phá sản đã được sửa đổi theo hướng bổ sung nhiều quy định rõ ràng hơn, trình tự thủ tục hợp lý hơn, tiến bộ hơn. Thực ra có những quy định không mới mà lấy lại chính quy định tại Luật phá sản năm 1993 như quy định về việc Tòa án ra quyết định phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã trước khi tiến hành thủ tục thanh lý tài sản.
  • Chắc chắn những quy định trong Dự thảo Luật phá sản lần này nếu được thông qua sẽ cải thiện tốt hơn việc thực hiện thủ tục phá sản cho các doanh nghiệp hiện nay.

 

Luật Phá sản 2004 đang giới hạn đối tượng điều chỉnh là doanh nghiệp và hợp tác xã. Có quan điểm cho rằng, Luật Phá sản cần bổ sung thêm một số đối tượng khác như tổ chức tín dụng, hộ gia đình, các trường học, các tổ chức có đăng ký kinh doanh khác. Vậy, Luật sư có quan điểm như thế nào về việc mở rộng đối tượng điều chỉnh của Luật Phá sản 2004?

Trả lời:

  • Tôi bày tỏ quan điểm đồng tình với quan điểm mở rộng đối tượng điều chỉnh của Luật Phá sản thêm các đối tượng khác như tổ chức tín dụng, hộ gia đình và các tổ chức có đăng ký kinh doanh khác, bởi:
  • Thứ nhất, việc mở rộng thêm các đối tượng điều chỉnh của Luật Pháp sản thể hiện chính sách đối xử bình đẳng giữa các chủ thể có đăng ký kinh doanh của nhà nước ta;
  • Thứ hai, việc mở rộng đối tượng điều chỉnh của Luật Phá sản là phù hợp với khuyến nghị số 8 và 9 của Khuyến nghị Hướng dẫn xây dựng pháp luật phá sản của Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên hiệp quốc (UNCITRAL);
  • Thứ ba, trên thế giới đã có nhiều quốc gia mở rộng đối tượng áp dụng của Luật Phá sản ngoài doanh nghiệp như Nhật Bản, Pháp, Đức, Anh…;
  • Thứ tư, các chủ nợ sẽ có thêm một cơ chế để thu hồi nợ của các tổ chức khác này lâm vào tình trạng phá sản, từ đó giảm bớt thiệt hại cho chủ nợ.

 

Hiện nay, thủ tục phá sản áp dụng cho các Công ty chứng khoán và các Tổ chức tín dụng được thực hiện theo hướng dẫn tại các Nghị định của Chính phủ. Theo ông, vấn đề này có nên được thể chế hóa trong Luật Phá sản sửa đổi, bổ sung tới đây hay tiếp tục giữ quy định trong các Nghị định như cách làm đối với Luật phá sản năm 2004?

Trả lời:

  • Ở thời điểm ban hành Luật Phá sản 2004, hoạt động của các mô hình Tổ chức tài chính như Công ty chứng khoán, Tổ chức tín dụng còn nhiều hạn chế vì nền kinh tế đất nước chưa thực sự phát triển và cũng chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng (Luật Chứng khoán lần đầu tiên được ban hành năm 2006, Luật các Tổ chức tín dụng được ban hành năm 2010, thay thế cho Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, sửa đổi, bổ sung năm 2004).
  • Do đó, Luật Phá sản chỉ có một quy định duy nhất tại Khoản 2 Điều 2 nhắc đến việc phá sản của các mô hình Tổ chức tài chính và trình tự, thủ tục phá sản của các đối tượng này được Chính Phủ quy định chi tiết tại Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày 03/11/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phá sản đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính khác và Nghị định số 05/2010/NĐ-CP ngày 18/01/2010 quy định việc áp dụng Luật phá sản đối với các tổ chức tín dụng.
  • Trong bối cảnh hiện nay, với cơ sở pháp lý rõ ràng, các Công ty chứng khoán, Tổ chức tín dụng đang phát triển cả về quy mô và số lượng. Các hoạt động kinh doanh cũng như sự sống còn của các tổ chức này ảnh hưởng rất lớn đến các nhà đầu tư, các doanh nghiệp và các cá nhân. Suy thoái kinh tế khiến không ít các Công ty chứng khoán, Tổ chức tín dụng hoạt động không hiệu quả, làm ăn yếu kém. Do vậy, cần hoàn chỉnh cơ chế để cho phá sản các tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán này.
  • Tuy nhiên, việc phá sản của các Tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán thường có quy mô ảnh hưởng rất rộng. Việc phá sản của các tổ chức này thậm chí còn có thể ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế và phát triển của xã hội.
  • Do đó, việc phá sản các đối tượng này đòi hỏi phải có cơ chế chặt chẽ, tuân theo quy trình đặc biệt để đảm bảo được quyền lợi của nhà đầu tư, người gửi tiền, đảm bảo trật tự an toàn xã hội và phải được xem xét, xử lý hợp lý để tránh ảnh hưởng, tác động dây chuyền đến các Công ty chứng khoán, Tổ chức tín dụng khác, ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư, người gửi tiền đối với các tổ chức tài chính này.
  • Về việc nên quy định trong Luật hay các văn bản dưới luật thì theo tôi không quan trọng.
  • Bởi lẽ, về nguyên tắc, khi Luật quy định dẫn chiếu đến văn bản dưới luật, thì văn bản được dẫn chiếu đó được thi hành và áp dụng như luật. Do đó, điều quan trọng hơn là quy định như thế nào chứ không phải quy định ở đâu đối với việc phá sản của các đối tượng là công ty chứng khoán hay các tổ chức tín dụng.

 

Trong Dự thảo Luật Phá sản sửa đổi, có quy định mới về “Quản tài viên”. Ông có bình luận gì về quy định này trong Dự thảo luật?

Trả lời:

  • Chế định quản tài viên là một chế định mới trong Luật phá sản Việt Nam nhưng là một khái niệm không mới trong pháp luật nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản, Đức, Nga, Pháp, Mỹ, Latvia. Ủy ban Luật thương mại quốc tế của Liên hiệp quốc (UNCITRAL) cũng có khuyến nghị số 45 về chế định Quản tài viên.
  • Việc bổ sung quy định về quản tài viên trong Dự thảo Luật phá sản sửa đổi lần này là một tiến bộ, thay thế cho quy định Tổ quản lý, thanh lý tài sản quy định tại Luật phá sản 2004 thực tiễn cho thấy hoạt động không hiệu quả.
  • Theo Dự thảo mới nhất của Luật phá sản sửa đổi, quản tài viên là người được Tòa án chỉ định để quản lý tài sản, giám sát và quản lý hoạt động kinh doanh trong trường hợp phục hồi, tái cơ cấu doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản và thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này.
  • Về quy định này, tôi có hai bình luận như sau:
  • Thứ nhất, liên quan đến điều kiện được chỉ định làm “Quản tài viên” cũng có khá nhiều ý kiến về việc nên hay không nên quy định chỉ Luật sư đã có thẻ luật sư và đã hành nghề trong một thời gian nhất định mới được là quản tài viên.
  • Theo tôi, việc quản tài viên là luật sư hay không phải là luật sư không quan trọng mà quan trọng là phải quy định rõ về điều kiện năng lực, kiến thức chuyên môn, phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm nghề nghiệp của người được cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên.
  • Do đó, việc quy định điều kiện tiên quyết để được cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên phải là luật sư theo tôi là không phù hợp. Nhất là trong giai đoạn hiện nay sau khi Dự thảo luật phá sản sửa đổi được thông qua và chưa có hướng dẫn của Chính phủ về điều kiện, trình tự thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên.
  • Thứ hai, Dự thảo luật nên quy định rõ hơn về các trường hợp thay thế quản tài viên như thế nào là “không vô tư”, lý do khách quan mà quản tài viên không thể tiếp tục vụ việc phá sản là gì, trách nhiệm của quản tài viên ra sao trong trường hợp vi phạm các nghĩa vụ của quản tài viên theo quy định của pháp luật mà gây thiệt hại?

 

Dự thảo Luật phá sản sửa đổi đã bổ sung thêm các đối tượng có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một doanh nghiệp/hợp tác xã phá sản. Ông có nhận xét gì về sửa đổi này?

Trả lời:

  • Theo quy định của Luật phá sản 2004, các đối tượng có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố 1 doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản bao gồm: các chủ nợ, cổ đông/ nhóm cổ đông công ty cổ phần, thành viên hợp danh; người lao động hoặc đại diện người lao động, đại diện công đoàn.
  • Dự thảo Luật phá sản sửa đổi đã mở rộng phạm vi trong số các đối tượng trên đồng thời quy định cụ thể hơn.
  • Chẳng hạn, Luật phá sản 2004 không cho đối tượng là chủ nợ có tài sản bảo đảm là đối tượng được quyền yêu cầu tòa án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản hoặc người lao động phải thông qua đại diện hoặc tổ chức công đoàn thì nay dự thảo Luật phá sản sửa đổi đã bổ sung thêm đối tượng là chủ nợ có tài sản bảo đảm hoặc người lao động bị nợ tiền lương có quyền trực tiếp yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã. Đối với cổ đông, nhóm cổ đông của công ty cổ phần, tỷ lệ sở hữu cổ phần liên tục trong thời hạn 6 tháng cũng được giảm xuống đến 10% vốn điều lệ.
  • Theo tôi, đây là những quy định tiến bộ, góp phần phát hiện sớm hơn những doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, tạo thêm các kênh mới để thúc đẩy việc làm đơn yêu cầu giải quyết phá sản, góp phần chấm dứt tình trạng có doanh nghiệp thực chất đã không thể hoạt động trên thực tế nhưng vẫn tồn tại về mặt pháp lý. Các quy định này cũng phù hợp vói pháp luật về phá sản của một số nước trên thế giới như Nhật, Pháp, Đức, Anh, Nga.
  • Hiện dự thảo Luật phá sản sửa đổi cũng đang để hai phương án để xác định chủ nợ có quyền gửi yêu cầu tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản đến tòa án. Theo đó, một phương án có quy định cụ thể số tiền mà doanh nghiệp không có khả năng thanh toán trong thời hạn ba tháng kể từ ngày có yêu cầu.
  • Theo tôi, việc để số tiền giới hạn để xác định doanh nghiệp không có khả năng thanh toán là cần thiết. Tuy nhiên, nếu quy định cứng (200 triệu) như Dự thảo luật hiện nay thì rất khó áp dụng cho tất cả các loại hình và quy mô doanh nghiệp mà nên dựa trên vốn điều lệ hoặc tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp theo báo cáo tài chính gần nhất của doanh nghiệp, hợp tác xã.

 

Luật Phá sản 2004 đang quy định các giao dịch của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được thực hiện trong khoảng ba tháng trước ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu (Điều 43). Luật sư có bình luận gì về quy định này?

Trả lời:

  • Theo tôi, quy định này đã bộc lộ nhiều bất cập và vẫn “để lọt” tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã khi mở thủ tục phá sản
  • Thứ nhất, quy định tại Khoản 1 Điều 43 Luật Phá sản chỉ mới “kiểm soát” được một số giao dịch được “thực hiện trong khoảng thời gian ba tháng trước ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản”. Điều đó có nghĩa các giao dịch được thực hiện từ trước đó, kể cả có mục đích tẩu tán tài sản sẽ không bị xem xét vô hiệu (trừ các giao dịch vô hiệu theo quy định của pháp luật).
  • Thứ hai, Điều 31[1] Luật Phá sản 2004 cũng chỉ “kiểm soát” được một số giao dịch từ “kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản”.
  • Như vậy, các giao dịch liên quan đến tài sản của doanh nghiệp từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến trước ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản vẫn chưa được Luật Phá sản 2004 quy định. Do đó, doanh nghiệp, hợp tác xã có thể sử dụng “lỗ hổng” của Luật Phá sản 2004 để “ngang nhiên” tẩu tán tài sản trong khi cơ quan có thẩm quyền khó có thể ngăn chặn được hành vi này.

 

Có quan điểm cho rằng, quy định tại Khoản 1 Điều 43 Luật Phá sản 2004 khi triển khai thực hiện trong thực tiễn đã bộc lộ nhiều điểm không hợp lý. Theo quan điểm của Luật sư, quy định này có những hạn chế gì và Luật sư có đề xuất gì để sửa đổi quy định này?

Trả lời:

  • Theo quan điểm của tôi, Khoản 1 Điều 43 Luật Phá sản 2004 có 03 điểm bất hợp lý cần được khắc phục.
  • Thứ nhất, doanh nghiệp, hợp tác xã có thể dễ dàng “lách” quy định này bằng cách sẽ chỉ yêu cầu mở thủ tục phá sản sau 03 tháng kể từ ngày thực hiện các giao dịch đó. Trong trường hợp này, mục đích bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản của Điều 43 Luật Phá sản 2004 không đạt được.
  • Thư hai, Khoản 1 Điều 43 Luật Phá sản 2004 quy định về các giao dịch bị coi là vô hiệu. Do đó, quy định về thanh toán cho hợp đồng song vụ, thanh toán các khoản nợ quy định tại Điểm b, c Khoản 1 Điều 43 Luật Phá sản 2004 là không phù hợp.
  • Thứ ba, như phân tích ở trên, quy định tại Khoản 1 Điều 43 Luật Phá sản 2004 đang để lại một khoảng trống đối với các giao dịch được thực hiện từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến trước ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản. Doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản có thể sử dụng các quy định này để tẩu tán tài sản.
  • Bởi các lý do như trên, tôi cho rằng, Khoản 1 Điều 43 Luật Phá sản 2004 không nên quy định “cứng” một khoảng thời gian giao dịch được thực hiện để xem xét vô hiệu mà chỉ nên quy định nguyên tắc chung để xác định giao dịch vô hiệu nếu giao dịch đó nhằm mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
  • Đồng thời, để hạn chế giao dịch của Doanh nghiệp/hợp tác xã nhằm mục đích tẩu tán tài sản thì khi tuyên giao dịch này vô hiệu Tòa án phải xem xét giao dịch này có: “ Vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định trong Bộ luật dân sự và văn bản pháp luật có liên quan; Có mục đích nhằm tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản; Giao dịch có giá thấp hơn giá thị trường; Giao dịch nhằm đối xử không công bằng giữa các chủ nợ” như đã quy định trong Dự thảo sửa đổi Luật Phá sản (khoản 1 Điều 61 Dự thảo sửa đổi Luật Phá sản).

 

Để rút ngắn và đơn giản hơn nữa trình tự, thủ tục phá sản của doanh nghiệp, theo ông các quy định trong dự thảo Luật phá sản sửa đổi là đã phù hợp hay chưa?

Trả lời:

  • Với việc sửa đổi và bổ sung thêm khá nhiều quy định mới liên quan đến trình tự, thủ tục phá sản trong Dự thảo (lần thứ 3) của Luật Phá sản. Trình tự, thủ tục phá sản doanh nghiệp bao gồm 7 bước chính: (1) Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; (2) Hòa giải và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; (3) Mở thủ tục phá sản; (4) Hội nghị chủ nợ; (5) Phục hồi doanh nghiệp; (6) Ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản; (7) Thi hành Quyết định tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản.
  • Về cơ bản, trình tự thủ tục theo Dự thảo có khá nhiều điểm mới so với Luật Phá sản 2004. Trong đó, tôi đặc biệt ủng hộ quan điểm bổ sung thêm giai đoạn thương lượng, hòa giải giữa các chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
  • Theo quan điểm của tôi, việc cho phép các chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản có cơ hội thương lượng, hòa giải với nhau trước khi tiếp tục thực hiện các thủ tục tiếp theo là một cơ chế mang tính nhân văn cao. Việc thương lượng thành có nhiều ý nghĩa tích cực về mặt kinh tế, xã hội.
  • Tại thời điểm trước khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản có quyền thương lượng với người yêu cầu mở thủ tục phá sản không phải với tất cả các chủ nợ. Do đó, hiệu quả của việc thương lượng được sẽ dẫn đến việc bên yêu cầu mở thủ tục phá sản sẽ rút đơn yêu cầu hoặc thương lượng được việc giải quyết các khoản nợ. Nhờ đó, doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản có cơ hội tiếp tục hoạt động kinh doanh để trả nợ.
  • Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi của chủ sở hữu doanh nghiệp, hợp tác xã và quyền của các chủ nợ khác, kết quả thương lượng phải nhận được sự thống nhất của chủ sở hữu doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
  • Tôi cũng ủng hộ những thay đổi trong thứ tự phân chia tài sản khi ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tại Dự thảo (lần thứ 3) Luật Phá sản, Điều 55 quy định về thứ tự phân chia tài sản đã liệt kê thứ tự các khoản nợ được ưu tiên thanh toán trước. Trong đó, các khoản nợ tiền thuế, khoản phạt hành chính được ưu tiên thanh toán trước các khoản nợ khác. Theo quan điểm của tôi, thứ tự phân chia tài sản quy định tại Điều 55 Dự thảo Luật nói trên là hợp lý vì việc nộp tiền thuế và phạt vi phạm là trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã với nhà nước và với cộng đồng và xã hội. Trách nhiệm này phát sinh hàng năm và thường phát sinh trước khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Việc ưu tiên doanh nghiệp, hợp tác xã nộp các khoản này vào ngân sách nhà nước sau khi thanh toán nghĩa vụ với các chủ nợ vô hình chung khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã trốn tránh nghĩa vụ với nhà nước.
  • Trình tự, thủ tục quy định trong Dự thảo luật lần này theo tôi là phù hợp và chắc chắn sẽ rút ngắn được thủ tục phá sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhà làm luật cũng cần nghiên cứu bổ sung thêm các trường hợp cụ thể để áp dụng phá sản theo thủ tục rút gọn như quy định tại pháp luật về phá sản của các nước trên thế giới.
  • Theo tôi, việc phá sản doanh nghiệp cần được nhìn nhận theo hướng đơn giản hóa theo kiểu “có sinh, có tử” chứ không phải vấn đề quá nghiêm trọng như quan điểm trước đây của các nhà làm luật.

 

Theo quy định tại Luật phá sản 2004, người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản không được quyền thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, không được làm người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời hạn từ một đến ba năm, kể từ ngày doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản. Nhiều người cho rằng đây là quy định không phù hợp bởi hoạt động kinh doanh luôn đi kèm với những rủi ro liên quan, trong nhiều trường hợp, tình trạng mất khả năng thanh toán nảy sinh không phải do lỗi của chủ doanh nghiệp và người quản lý, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế khó khăn hiện nay. Với vai trò là một nhà quản lý doanh nghiệp, xin Ông cho biết quan điểm của mình về vấn đề này?

Trả lời:

  • Theo tôi, mục đích của nhà làm luật khi đưa quy định này vào Luật phá sản 2004 là nhằm hạn chế những cá nhân không có năng lực điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh nếu tham gia vào việc điều hành sản xuất kinh doanh khiến doanh nghiệp, hợp tác xã bị làm ăn thua lỗ dẫn đến phá sản thì có thể sẽ gây hại rất lớn cho xã hội đặc biệt là tại những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. Cũng có những trường hợp thành lập những công ty “ma” sau đó vay nợ nhiều nơi rồi yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.
  • Theo tôi những trường hợp này phải bị pháp luật xử lý nghiêm minh. Tuy nhiên, xét ở khía cạnh khác, quy định này cũng gây ảnh hưởng đến uy tín của những người thực sự có năng lực, cản trở họ tham gia đóng góp vào xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội bởi lẽ trong thương trường, có rất nhiều nguyên nhân khiến cho một doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán mà không phải do chủ doanh nghiệp, người quản lý yếu kém.
  • Dự thảo Luật phá sản đang sửa đổi theo hướng chỉ những người giữ chức vụ quản lý của doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc lĩnh vực kinh doanh có điều kiện hoặc lĩnh vực công ích nhà nước bị tuyên bố phá sản mới bị áp dụng quy định trên. Đây cũng là một điều chỉnh hợp lý đồng thời cũng góp phần khuyến khích các doanh nghiệp tự giác hơn trong việc tự nộp đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản.

Dự thảo Luật phá sản sửa đổi cũng đã loại trừ các trường hợp bị phá sản do bất khả kháng. Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế có được coi là bất khả kháng hay không thì theo tôi cũng cần phải xem xét thêm, đồng thời dự thảo luật cũng nên làm rõ thế nào là “bất khả kháng” để tránh các tranh cãi sau này do luật quy định không rõ.

_______________________

Ghi chú:

[1] Điều 31 Luật Phá sản 2004 quy định về các hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã bị cấm hoặc bị hạn chế như sau:

Kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, nghiêm cấm doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện các hoạt động sau đây:

a) Cất giấu, tẩu tán tài sản;

b) Thanh toán nợ không có bảo đảm;

c) Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ;

d) Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp.

Sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, các hoạt động sau đây của doanh nghiệp, hợp tác xã phải được sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán trước khi thực hiện:

a) Cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản;

b) Nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng;

c) Chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực;

d) Vay tiền;

đ) Bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản;

e) Thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã.